Kỹ thuật sinh thiết lạnh (cắt lạnh) là phương pháp xét nghiệm mô bệnh học nhanh, thường được áp dụng trong phẫu thuật.
Khái niệm kỹ thuật sinh thiết lạnh (cắt lạnh):
Kỹ thuật sinh thiết lạnh (cắt lạnh) là phương pháp xét nghiệm mô bệnh học nhanh, thường được áp dụng trong phẫu thuật. Trong quá trình phẫu thuật, phẫu thuật viên lấy một phần hoặc toàn bộ u chuyển đến khoa giải phẫu bệnh. Các bác sĩ giải phẫu bệnh tiến hành cắt bệnh phẩm trên máy cắt lạnh để làm tiêu bản. Dựa vào tiêu bản này, các bác sĩ giải phẫu bệnh có thể xác định được u lành hay ác, loại mô học. Quy trình này được thực hiện trong vòng 10 - 15 phút, giúp cho phẫu thuật viên có thể xử lý các bước tiếp theo. Bệnh nhân và phẫu thuật viên được lợi là không phải phẫu thuật lần 2.
Lịch sử kỹ thuật sinh thiết lạnh:
Kỹ thuật sinh thiết lanh (cắt lạnh) được thực hiện ngày nay trong các phòng thí nghiệm giải phẫu bệnh được dựa trên mô tả của Bác sĩ Louis B. Wilson vào năm 1905. Wilson đã phát triển kỹ thuật này theo yêu cầu của các bác sĩ phẫu thuật tại Phòng khám Mayo - bang Minnesota-Mỹ. Một số báo cáo trước đó của Tiến sĩ Thomas S. Cullen tại Bệnh viện Johns Hopkins ở Baltimore cũng liên quan đến phần đông lạnh, nhưng chỉ sau khi đã cố định mô, và bác sĩ giải phẫu bệnh William Welch, cũng tại Hopkins, đã thử nghiệm quy trình của Cullen nhưng không có hiệu quả lâm sàng. Do đó, Wilson thường được ghi nhận là người thực sự tiên phong trong quy trình sinh thiết lạnh (Gal & Cagle, 2005).
Phương pháp sinh thiết lạnh:
Thiết bị chính để thực hiện kỹ thuật này là máy sinh thiết lạnh, về cơ bản là một máy cắt lát vi thể bên trong buồng kín được làm lạnh ở nhiệt độ thấp. Máy cắt tiêu bản này là một công cụ rất chính xác, có khả năng cắt mô thành các lát mỏng chỉ 1 micromet. Các lát cắt mô sinh thiết lạnh thông thường sẽ được cắt ở mức 5 đến 10 micromet.
Mẫu mô tươi lấy từ phòng phẫu thuật sẽ được đặt trong khuôn đúc, sau đó được làm đông lạnh nhanh chóng đến khoảng -20 đến -30oC. Để làm đông, mô sẽ được nhúng trong một loại gel đặc biệt trường gọi là OCT Compound - hợp chất bao gồm poly ethylene glycol và polyvinyl alcohol; hợp chất này được biết đến bởi nhiều tên thương mại khác nhau và khi đông lạnh có mật độ tương tự như mô đông lạnh.
Ở nhiệt độ âm sâu, hầu hết các mô sẽ trở nên đông cứng, giúp việc cắt mỏng trở nên dễ dàng. Mỗi loại mô sẽ có một khoảng nhiệt độ âm phù hợp để xử lý. Đối với các mô giàu chất béo hoặc lipid, cần hạ nhiệt độ xuống mức thấp hơn ở -40 đến -50oC.
Sau khi đã đúc mẫu mô trong OCT Compound, khối mô sẽ được cắt trong buồng lạnh bằng hệ thống máy cắt lát vi thể, các lát cắt tiêu bản sau đó sẽ được đặt trên một phiến kính và đưa đi nhuộm màu (thường là với hematoxylin và eosin theo phương pháp HE).
Việc chuẩn bị mẫu trong kỹ thuật sinh thiết lạnh là nhanh hơn nhiều so với kỹ thuật mô học truyền thống (khoảng 15 phút so với 16 giờ). Tuy nhiên, chất lượng các tiêu bản nhuộm thường kém hơn và áp lực về thời gian là lớn hơn nhiều.
Ứng dụng của kỹ thuật sinh thiết lạnh:
- Chẩn đoán xác định trong lúc mổ
- Kiểm tra diện cắt trong phẫu thuật ung thư
- Chẩn đoán tình trạng di căn của khối ung thư ngay trong phẫu thuật
Các trang thiết bị cần thiết để triển khai kỹ thuật sinh thiết lạnh:
|
Dung dịch đúc khối cắt lạnh (OCT Compound) |
Buồng đông mẫu PINO |